Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2011

Russian Songs

Đây là món quà thứ ba tớ dành cho cậu. Những bài hát một thời để nhớ từ Russian Album (1994) - Paul Mauriat & James Last (CD1). (Thực ra tớ rất muốn tặng cậu cả album nhưng không hiểu sao tớ không thể lấy được code của cả album.)


Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2011

Я вAс любИл: Trở lại đề tài mối liên hệ giữa ca từ và thi từ

Я вAс любИл: любОвь ещЕ, быть мOжет,
В душЕ моЕй угАсла нЕ совсЕм;
Но пУсть онА вас бОльше нЕ тревОжит;
Я нЕ хочУ печАлить вАс ничЕм.

Я вАс любИл безмОлвно, бЕзнадЕжно,
То рОбостьЮ, то рЕвностьЮ томИм;
Я вАс любИл так ИскреннО, так нЕжно,
Как дАй вам БОг любИмой бЫть другИм.

Xin mượn bài thơ này của đại văn hào Pushkin để minh họa về mối liên quan giữa ca từ và thi từ trong tiếng Nga.
Đặc điểm của các ngôn ngữ Nga, Anh, Pháp... là các dấu trọng âm. Người Ta nói tiếng Tây sai trọng âm thì cũng như người Tây nói tiếng Ta lơ lớ không bỏ dấu, ngộ nghĩnh và khó hiểu. Việc đưa thơ vào nhạc cũng có điểm giống như thế.
Khi vào thơ, các trọng âm được sắp xếp thay phiên với các vần không có trọng âm theo chu kỳ. Quy luật chu kỳ này tạo ra một sự tương ứng với các phách mạnh và phách nhẹ của giai điệu.
Có thể một phần vì vậy chăng mà âm nhạc Tây phương giàu tính nhịp điệu? Dĩ nhiên truyền thống dân vũ mạnh mẽ của họ cũng có ảnh hưởng rất quan trọng.
Trở lại bài thơ trên, tôi đánh dấu các nguyên âm trọng âm/phách mạnh bằng chữ cái in hoa viết nghiêng, các nguyên âm có trọng âm thứ cấp/phách mạnh vừa bằng chữ cái in hoa. Các nguyên âm để chữ in thường thì hoàn toàn không có trọng âm.
Bây giờ, bạn hãy thử đọc lại bài thơ theo nhịp “ta tẮt ta tA, ta tẮt ta tA...”. Nếu không đọc được tiếng Nga cũng không sao, chỉ cần nhẩm qua các nguyên âm và dùng ngón tay gõ nhịp theo. Bạn có thấy là bài thơ đã chứa sẵn nhịp điệu 2/4 (hoặc 4/4)? Bạn cũng có thể dễ dàng chuyển sang nhịp ¾ nếu để nguyên âm có trọng âm ngân dài gấp đôi nguyên âm không có trọng âm.
Tiếp theo, bạn hãy nhìn vào kết thúc của từng dòng thơ để xem cách gieo vần của bài thơ này. Câu thứ nhất hiệp vần với câu thứ 3 (мOжет – вОжит). Câu thứ 2 hiệp vần với câu thứ 4 (сЕм – чЕм). Các trọng âm cuối câu này rất quan trọng vì trong giai điệu tương ứng, chúng sẽ được ngân dài hơn. Việc gieo vần vào những chỗ dễ nhận thấy về mặt nhạc tính như thế này sẽ thu hút sự chú ý của người nghe. Một trong những kết quả là bài hát dễ hát và dễ nhớ.
Cuối cùng, bạn hãy so sánh hai khổ thơ. Chúng được gieo vần khác nhau, nhưng xét về mặt cấu trúc các câu nhạc chúng hoàn toàn lặp lại nhau về số lượng dòng thơ, độ dài từng câu thơ, kết cấu nhịp điệu và nhất là phách mạnh kết của mỗi câu. Điều ấy có nghĩa là nếu bạn định phổ nhạc bài thơ này, bạn đã có sẵn 2 verses (phiên khúc) để hát vào CÙNG một giai điệu.
Thơ tiếng Việt thông thường không tuân theo những quy luật nói trên mà có những quy luật riêng về bằng trắc. Nhưng bạn vẫn hoàn toàn có thể làm thơ tiếng Việt vận dụng những quy luật của âm nhạc. Và thể loại thơ đặc biệt đó chính là ca từ.
Nhưng quy luật của âm nhạc rất lạ kỳ. Vì nhiều khi những gì đi vào lòng người nghe lại không theo những nếp phổ biến thông thường. Hơn nữa trên đây chỉ là suy nghĩ và phân tích của cá nhân tôi. Không phải là những quy tắc trích dẫn từ sách giáo khoa, vì 3Chai có qua trường lớp nào đâu.

Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

Я вас любил

Александр Сергеевич Пушкин
Я вас любил: любовь еще, быть может,
В душе моей угасла не совсем;
Но пусть она вас больше не тревожит;
Я не хочу печалить вас ничем.

Я вас любил безмолвно, безнадежно,

То робостью, то ревностью томим;
Я вас любил так искренно, так нежно,
Как дай вам Бог любимой быть другим.

Vladimir Atlantov - "Я вас любил" - Ivan Kramskoy's paintings

***
TÔI YÊU EM

Tôi đã yêu em: tình yêu, có lẽ,

Trong lòng tôi chưa tắt hẳn;
Nhưng thôi, hãy để nó chẳng quấy rầy em thêm nữa.
Tôi không muốn làm em phiền muộn bởi bất cứ điều gì.

Tôi đã yêu em lặng thầm, không hy vọng,

Bị giày vò khi bởi rụt rè, khi bởi nỗi hờn ghen.
Tôi đã yêu em chân thành, dịu dàng đến thế,
Cầu Chúa cho em người được người khác yêu như vậy.
(Bản dịch nghĩa)
***
Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;
Nhưng không để em bận lòng thêm chút nữa,
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.

Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
(Bản dịch của Thúy Toàn)

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

Giao hưởng số 40 của Mozart

Giao hưởng số 40 của Mozart trữ tình và đầy thương cảm
Giao hưởng số 40 đứng riêng biệt trong sáng tác của Mozart về tính lãng mạn, và có lẽ là tác phẩm được nghe nhiều nhất của Mozart với đoạn mở đầu, cũng là chủ đề chính chương 1 rất quen thuộc. Ánh sáng rực rỡ của thời kỳ Cổ điển, việc sáng tác thách thức các nhạc sĩ thể hiện hiệu quả tối đa, chính là những tác phẩm giao hưởng. Một trong những viên ngọc ấy là bản symphony của Mozart, tác phẩm số 40 cung Sol thứ, K.550. Symphony này được viết vào mùa hè năm 1788, lúc Mozart ba mươi hai tuổi, chỉ trong vòng sáu tuần lễ, ông đã viết xong ba bản symphony. Và bản Symphony số 40 này đã trở thành một trong 3 tác phẩm viết về thể loại này nổi tiếng nhất, hoàn hảo nhất của ông.


Bản giao hưởng số 40 của Mozart có 4 phần theo cách sắp đặt thông thường của các bản giao hưởng cổ điển gồm: Khúc nhanh Molto (Molto Allegro nhip 2/2) - Khúc thong thả (Andante, nhịp 6/8) - Khúc nhảy Mơ-nu-et tam tấu hơi nhanh (Menuetto Allegretto Trio, nhip 3/4) và Khúc nhanh dồn dập (Allegro, nhịp 2/2). Trong bộ ba giao hưởng, bản Sol thứ giữa vị trí một khúc intermezzo trữ tình, đầy màu sắc thương cảm. Giao hưởng số 40 đứng riêng biệt trong sáng tác của Mozart về tính lãng mạn, và có lẽ là tác phẩm được nghe nhiều nhất của Mozart với đoạn mở đầu, cũng là chủ đề chính chương 1 rất quen thuộc.
Chương 1 bắt đầu với chủ đề chính xuất hiện tức khắc, đầy xao xuyến, xúc động. Sự thương cảm, đau xót càng tăng dần lên trong phần phát triển với cảm xúc dào dạt. Đoạn cuối chan chứa một nỗi buồn thầm lặng.
1st Movement: Molto Allegro
Chương 2 đầy trầm lặng và suy tư. Xuất hiện một chủ đề mới dịu dàng, phảng phất buồn. Sự phát triển của tất cả các chủ đề đều mang những nét lo âu, buồn bã.
2nd Movement: Andante 
Chương menuet mở đầu nghiêm túc và chững chạc sau đó xuất hiện những điệu nhảy của giới quý tộc.
3rd Movement: Menuetto - Alegretto & Trio
Chương cuối xuất hiện những hình tượng gần gũi với chương 1. Kịch tính lúc mở đầu nay thể hiện rõ hơn. Với chuyển động sôi nổi, nhanh, hình thức gọn gàng, chương cuối Giao hưởng số 40 mang tính trần thuật khách quan.
4th Movement: Finale - Allegro Assai 
Về mặt nhạc cụ, bản giao hưởng này được sáng tác dành cho sáo (flute), kèn (gồm oboe, clarinet, fa-gốt (bassoon), kèn ốc (horn) và bộ dây (violin, viola, cello và contrabass).
Ông bố trí nhạc cụ cho tác phẩm Symphony số 40 này với khối đàn dây tiêu biểu bao gồm violin, viola và cello, cộng thêm kép đôi contrabass. Khối kèn gỗ sử dụng hai flute, hai kèn oboe và hai kèn bassoon.
Khối kèn đồng chỉ có hai french horn, và bộ gõ gồm hai bộ timpani. Không có trumpet hoặc trombone. (Mozart sử dụng kèn trombone trong các opera, nhưng không bao giờ dùng trong symphony). Cũng không có clarinet trong tổng phổ nguyên bản, về sau Mozart mới thêm vào.
Những symphony vào thời Mozart thông thường bao gồm những ba hoặc bốn chuyển hành. Chuyển hành thứ nhất, thường được ghi allegro, được trình tấu ở tốc độ nhanh, mãnh liệt và kịch tính. Chuyển hành này luôn luôn xuất hiện trong bản sônat, đôi khi có một đoạn intro ngắn.
Chuyển hành thứ nhì thường là một chuyển hành chậm, và có thể là đoạn diễn cảm trong thể loại sonata, thể loại rondo, hoặc thể loại chủ đề và biến tấu.
Chuyển hành thứ ba tiêu biểu là một minuet và trio, chơi trong tính cách duyên dáng theo nhịp ba. Đôi khi, chuyển hành này bị bỏ đi, để vào chuyển hành tiếp theo.
Chuyển hành kết thúc thông thường luôn có mặt trong thể loại sô nát , nhưng cũng có thể được viết theo thể loại rondo hoặc thể loại chủ đề và biến tấu. Nó thường được chơi rất mãnh liệt, đôi khi có tính cách hài hước, và nhất là bằng một tốc độ nhanh.
***
Shostakovich từng nói: "Mozart - đó là tuổi thanh xuân của âm nhạc, là nguồn sống khi xuân về và là sự hài hòa của tâm hồn". Còn từ điển Larousse của người Pháp cô đọng ông vỏn vẹn trong câu: "Mozart luôn tìm kiếm sự thanh khiết, nét tao nhã và biết đạt tới vẻ đẹp cao cả xuyên qua sự đơn sơ và nét duyên dáng"...
Có thể nói Bản giao hưởng số 40 của Mozart chính là sự kết tụ tuyệt vời những vẻ đẹp nơi âm nhạc của một bậc thiên tài.

Mozart: Symphony No. 40 / Pinnock · Berliner Philharmoniker

(Nguồn:hoagiai.vn)

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2011

PM - RC - JL