Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

Tổ khúc Bốn Mùa

The Four Seasons (Tổ khúc Bốn Mùa) là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhạc sĩ người Ý Аntoniо Vivaldi (1678 - 1741), một trong những nhạc sĩ được ưa chuộng nhất của thời kỳ Baroque tại Ý. Kể từ khi ra đời vào năm 1723 đến nay, Tổ khúc Bốn Mùa là một trong những tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất và được ghi âm nhiều nhất. Bản Bốn Mùa dưới đây do nghệ sĩ violin người Ý Giuliano Carmignola trình diễn.


Hôm nay trên đường trở về sau chuyến dã ngoại 5 ngày, Thu được anh Chuyền cho nghe tác phẩm này trên điện thoại. Chợt nhớ có một thời 2 cô trò đều thích tác phẩm này. Trò hứa sẽ viết một bài về Khúc "Mùa đông" là phần cô bé thích nhất. Đợi mãi mà chả thấy.

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

RUNNING SCARED TONIGHT (Ell & Nikki)

Mời các bạn nghe bài hát
RUNNING SCARED TONIGHT được giải Eurovision 2011.


Không có một hội đồng chuyên môn nào chấm giải Eurovision, mà là do khán giả truyền hình các nước bình chọn. Dĩ nhiên đã là bầu bán thì dù là cách nào thì cũng có người không vừa ý. Nhưng bạn hãy nghe, hãy thử đọc ca từ rồi bình luận sao vì sao "Running scared" lại được lòng khán giả. Bỏ qua hình ảnh đẹp đẽ của cặp ca sĩ, tập trung vào chuyên môn thôi nghen.

RUNNING SCARED TONIGHT
By Ell and Nikki (Azerbajan)

Oh oh, oh… oh, oh… oh, oh…
Oh oh, oh… oh, oh… oh, oh…
Come to me, come to me tonight
Oh God, I need you, anyway
Baby, I just wanna be, be around you all the time
Oh God, I need you, oh…
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of life
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
Come to me, come to me a bit more
Oh God, I need you, there’s nothing left for me to say
So rest on me darling, stay forever more
Oh God, I need you, I need you
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of life
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
Oh, what I wouldn’t give away
To be your shelter and keep you safe
Keep you safe
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of life
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
I’m running, I’m scared tonight
I’m running, I’m scared of breathing
‘Cause I adore you
And I’m running
And I’m running scared
‘Cause I adore you

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

Lúc nào nghe cũng thích

Thu hiếm khi có thời gian post hai bài liền trong một ngày, nhưng hôm nay là một ngoại lệ. Hôm qua đăng bài động đến chữ Opera ("nỗi đau riêng" :))) Hôm nay đăng bài lại động đến chữ ấy lần nữa nên nhất định phải tự "thưởng" mình. Vở Notre Dame de Paris (tựa tiếng Việt: Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà). Bài hát dưới đây Thu được một cô học trò cực kỳ dễ thương giới thiệu. Nghe xong nhớ mãi. Tình yêu thật tuyệt. Hôm nay "lọ mọ" đi tìm thế nào lại ra clip thứ 2. Hết sức ngạc nhiên, bất ngờ và thú vị tới mức không giới thiệu thì không chịu nổi. :))

Notre Dame de Paris song 19 Belle


Belle, the original cast (Garou, Daniel, Patric)

Overtures của những bản Opera hay nhất

 The Most Beautiful Opera Overtures 


 Nguồn ảnh: Internet
01. Mozart: The Marriage of Figaro
02. Mozart: The Abduction from the Seraglio
03. Mozart: The Magic Flute
04. Mozart: Don Giovanni
05. Beethoven: Fidelio
06. Rossini: William Tell
07. Rossini: La Gazza Ladra
08. Rossini: The Barber of Seville
09. Rossini: Semiramide
10. Rossini: L'italiana in Algeri
11. Wagner: The Mastersingers of Nuremberg
12. Wagner: Tannhäuser - part 1
13. Wagner: Tannhäuser - part 2
14. Wagner: Lohengrin
15. Offenbach: Orpheus in the Underworld
16. Bizet: Carmen
17. Verdi: Nabucco
18. Verdi: La Traviata

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Beethoven's Overtures

 Nguồn ảnh: Internet

Tên tuổi Beethoven gắn liền với sự ra đời của một thể loại giao hưởng mới - overtures (những khúc mở màn có tiêu đề). Từ “overture”, bắt nguồn từ “ouverture” trong tiếng Pháp, có nghĩa là tác phẩm gồm hai hoặc nhiều đoạn tạo thành một sự giới thiệu gây ấn tượng cho một vở ballet, opera hay oratorio ở thế kỉ 17. Chúng mang lại sức sống cho những tác phẩm lớn sau này, tùy thuộc vào tính chất tư tưởng chủ đề, có tên gọi là thơ giao hưởng (poème), khúc phóng túng (fantaisie) tranh giao hưởng (tableau symphonique) v.v...  Như chính tên gọi đã chỉ rõ, thể loại ấy phải chịu ơn khúc mở màn về sự ra đời của mình, nó báo trước vở ca kịch hoặc một vở kịch. Ví dụ như khúc mở màn "Prômêtê" sinh động và nhẹ nhàng gần gũi với giao hưởng số 1 về tính chất, được viết cho vở kịch múa "Sáng tạo của Prômêtê" (kịch bản và dựng vở của Vigan), khúc mở màn bi kịch anh hùng ca "Coriolan" chính ra là phần vào đầu của vở bi kịch cùng tên của nhà viết kịch người Áo Collin. Nhóm bốn khúc mở màn "Leonore" số 1,2,3 và "Phidelio", ra đời trong quá trình sáng tác vở nhạc kịch "Phidelio".

Trong sáng tác của Beethoven đã có sự biến đổi về chất của thể loại này: từ âm nhạc ứng dụng, khúc mở màn đã chuyển thành một tác phẩm giao hưởng. Lúc ban đầu được xây dựng như là phần vào đề của các vở kịch, các khúc mở màn của Beethoven sau đó đã được biểu diễn và đã có một cuộc đời của những tác phẩm độc lập. Kinh nghiệm của Beethoven có ý nghĩa rất lớn. Ông đã chứng minh điều kiện tồn tại của tác phẩm dàn nhạc có một chương, nó có khả năng ganh đua với một bản giao hưởng có nhiều chương về chiều sâu tư tưởng, sự phong phú và xúc tích về nội dung. Nhờ tính chất cô đọng hiếm có của ý đồ trong một "không gian" âm nhạc thu hẹp, nhờ logic phát triển giao hưởng nghiêm ngặt nhất, và sự rõ ràng về nội dung tư tưởng, những khúc mở màn của Beethoven đã trở thành những vở kịch khí nhạc cô đọng.

Một số khúc mở màn mà lịch sử âm nhạc đã chọn lọc trong sáng tác của Beethoven như những tác phẩm hay nhất.

05. Khúc mở màn "Fidelio"
(Sưu tầm & biên tập)

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

Kitaro - Impressions Of The West Lake (2009)

 Nguồn ảnh: Internet

Lấy cảm xúc từ Hồ Tây, Impressions Of The West Lake là album mới nhất của Kitaro được phát hành vào năm 2009. Album đã giành được 52 đề cử Grammy cho Album New Age xuất sắc nhất.

Tracklist
01. The Inmost Feeling Ripples
02. Aria Di West Lake
03. Fish Dive In The Lake
04. The Moon On The Lake
05. Impressions Of The West Lake
06. Zen
07. Lotus
08. Reflection Of The Moon
09. Romance
10. Spirit Of The West Lake

Thứ Năm, 12 tháng 5, 2011

Журавли

Nghe "Trận đánh cuối cùng" của bác Tualinh đăng, lại nhớ đến bài hát trong phim – Khi đàn sếu bay qua – bộ phim một thời đã được thanh niên Hà nội háo hức đón xem.
Cách đây tròn nửa thế kỷ, lần đầu tiên, một tác phẩm điện ảnh Xô viết đã đoạt được giải thưởng tại Liên hoan Phim Quốc tế Cannes. Nhiều thế hệ khán giả Việt nam đã có dịp thưởng thức và yêu thích bộ phim ấy, đó là "Khi đàn sếu bay qua" được đạo diễn Kalatozov dàn dựng năm 1957 theo kịch bản của Rozov, đã được nhận giải thưởng: "Cành cọ vàng" tại LHPQT Cannes lần thứ XI, giải Nữ diễn viên chính xuất sắc cho nữ diễn viên Samoilova.

Bộ phim mở đầu và kết thúc với một cảnh quay có nhiều sức gợi cảm xúc: hình ảnh đàn sếu bay trên bầu trời tượng trưng cho niềm hy vọng và khát khao cháy bỏng về một cuộc sống hòa bình và một tình yêu đích thực.

"...Cuối mùa thu, những con sếu, từng đàn, từng đàn bay về phương Nam để tránh cái lạnh mùa đông đang đến gần. Chứng kiến cảnh tượng đó, con người có những dự cảm của sự xa cách, nỗi nhớ mong và cả những bất trắc khó lường...
Mùa xuân đến, dõi theo đàn sếu trở về trong nắng ấm, nỗi vui sướng, niềm hy vọng thường chợt đến mà không gì ngăn cản nổi, dù trong suốt quãng thời gian trước đó, có thể người ta đã phải chịu đựng bao mất mát, khổ đau và tủi nhục..."
Bài hát trong phim được phổ nhạc với phần lời là bài thơ “Журавли” (Đàn sếu) của nhà thơ Rasul Gamzatovich Gamzatov (1923-2003) một nhà thơ Xô viết . Bộ phim này trong chúng ta chắc nhiều người đã được xem và nghe bài hát. Với bạn nào đã từng học tiếng Nga và học tại Liên Xô trước kia về lời thơ tiếng Nga sẽ được cảm nhận đầy đủ hơn.

Xem phim tại đây


 hoặc nghe TẠI ĐÂY
Журавли

Мне кажется порою, что солдаты,
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю эту полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.

Они до сей поры с времен тех дальних
Летят и подают нам голоса.
Не потому ль так часто и печально
Мы замолкаем, глядя в небеса?

Сегодня, предвечернею порою,
Я вижу, как в тумане журавли
Летят своим определенным строем,
Как по полям людьми они брели.

Они летят, свершают путь свой длинный
И выкликают чьи-то имена.
Не потому ли с кличем журавлиным
От века речь аварская сходна?

Летит, летит по небу клин усталый -
Летит в тумане на исходе дня,
И в том строю есть промежуток малый -
Быть может, это место для меня!

Настанет день, и с журавлиной стаей
Я поплыву в такой же сизой мгле,
Из-под небес по-птичьи окликая
Всех вас, кого оставил на земле.

Đàn sếu (Người dịch: Thuỵ Anh)

Những người lính không về sau trận đánh
Chiến trường xưa đẫm máu bao ngày
Tưởng như họ không nằm trong đất lạnh
Mà hóa thành muôn vạn sếu trắng bay

Đàn sếu trắng vẫn từ thuở ấy
Bay mãi đến bây giờ, cất tiếng gọi ta
Bởi thế chăng nên ta thường buồn bã
Ngừng chuyện giữa chừng đưa mắt ngắm trời xa?

Hôm nay đây khi bóng chiều chạng vạng
Tôi thấy sếu bay trong lớp sương mù
Thành đội hình âm thầm như năm cũ
Những con người dàn trận bước nhẹ chân

Sếu cứ bay đường xa lắc chẳng phân vân
Và những cái tên được điểm lên khắc khoải
Bởi thế chăng nên từ thuở xưa hoang dại
Tiếng Ava ta đã giống tiếng sếu trời?

Mũi tiến công xưa đã mỏi mệt rồi
Bay .. bay mãi trong ngày tàn sương muộn
Và giữa đội hình kia nhỏ nhoi khoảng trống
Chỗ trống này có lẽ để dành tôi?

Rồi sẽ đến ngày cùng đàn sếu tôi trôi
Trong bóng khói sương. Từ dưới làn mây tối
Bằng tiếng chim tôi sẽ cao tiếng gọi
Nhắn những người tôi bỏ lại trần gian…

Biên tập từ Internet

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2011

TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG


Последний бой
Музыка: Михаил Ножкин        Слова: Михаил Ножкин

Мы так давно, мы так давно не отдыхали.
Нам было просто не до отдыха с тобой.
Мы пол-Европы по-пластунски пропахали,
И завтра, завтра, наконец, последний бой.

Еще немного, еще чуть-чуть,

Последний бой - он трудный самый.
А я в Россию, домой, хочу,
Я так давно не видел маму.
 
А я в Россию, домой, хочу,
Я так давно не видел маму.
Четвертый год нам нет житья от этих фрицев,

Четвертый год соленый пот и кровь рекой,

А мне б в девчоночку в хорошую влюбиться,
А мне б до Родины дотронуться рукой.
Еще немного, еще чуть-чуть,
Последний бой - он трудный самый.

А я в Россию, домой, хочу,

Я так давно не видел маму.
А я в Россию, домой, хочу,
Я так давно не видел маму.
 
Последний раз сойдемся завтра в рукопашной,
Последний раз России сможем послужить,
А за нее и помереть совсем не страшно,
Хоть каждый все-таки надеется дожить.

Еще немного, еще чуть-чуть,

Последний бой - он трудный самый.
А я в Россию, домой, хочу,
Я так давно не видел маму.

А я в Россию, домой, хочу,
Я так давно не видел маму.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Nghe và cảm nhận

 Ảnh minh họa
Thu rất mê bản nhạc này và muốn nghe nó được trình bày với các cách phối khác nhau để có thể cảm nhận được phong cách riêng của từng nghệ sĩ. Hồi trước hầu như Thu chỉ hay nghe Paul Mauriat và Richard Clayderman, giờ thì hay nghe James Last và gần đây nữa là Raymond Lefèvre, còn Francis Lai, Franck Pourcel thì ít khi nghe và hầu như không biết gì về 2 ông này. Thu mới tìm được có 3 clip nếu ai biết thêm clip nào khác của bản này thì mách cho Thu nhé. Thanks.

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011

Raymond Lefèvre và những bản nhạc

Nhờ sự hướng dẫn của một người bạn mới quen, giờ Thu đã có thể nghe và xem YouTube ngay trong Góc Âm Nhạc mà không cần phải chạy đi chạy lại để chuyển bài và cũng không còn băn khoăn về vấn đề "bẻ khóa" để "bê" được clip về trang nhà. Xin chia sẻ với các bạn một số tác phẩm của Raymond Lefèvre. Bạn chỉ cần ấn vào tên bản nhạc là Youtube video sẽ hiện ra ở góc phải bên dưới, muốn đổi bài thì ấn vào tên bài khác. Nếu muốn nghe liên tục bạn chỉ cần ấn vào chữ skip trên video là YouTube sẽ tự động nhảy bài theo chế độ ngẫu nhiên. Còn muốn nghe theo thứ tự thì Thu chưa biết cách.

Update: Giờ thì Thu đã có thể nghe các bài theo thứ tự nhờ có cái Yahoo Media Player học lỏm bên Trang Hoctro.
01. Let It Be
02. Aria (1975)
03. Adoro
04. La Vie en Rose
05. "Le Gendarme et les Extra-Terrestres" OST
06. Soul Coaxing (Ame Câline)
07. Jo
08. Lullaby
09. Da troppo tempo
10. We Shall Dance
11. La Renine De Saba
12. A White Shade Of Pale
13. Une Belle Histoire
14. Concerto Pour Une Voix
15. The Days Of Pearly Spencer
16. Emmanuelle (1974)
17. The Immortal Cannon Of Pachelbel
18. Viens, Viens
19. Tu Te Reconnaitras
20. Un Grande Amore E Niente Piu
21. Une Simple Melodie
22. Un Jour L'amour
23. Qui Saura
24. Apres Toi
25. Jamais Je Ne Pourral Vivre Sans Toi

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2011

Quartet for Kobe

Nhân HT giới thiệu về Raymond Lefèvre, hãy xem và nghe clip dưới đây.
Paul Mauriat, Francis Lai, Franck PourcelRaymond Lefèvre là bốn nhạc trưởng của Pháp với bốn phong cách hòa tấu khác nhau cùng trình diễn một bản nhạc được Paul Mauriat soạn là: 'Quartet for Kobe' (1995)

PAUL MAURIAT & ORCHESTRA - 1996 - Live - Quartet for Kobe

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

Raymond Lefèvre

Đợt vừa rồi Thu bận quá, chả có thời gian đăng bài. Hôm nay vừa trở về sau một chuyến đi 4 ngày đến một nơi quen thuộc với những cảm giác mới mẻ.
Tặng các bạn một bản nhạc  "nghe đi nghe lại hoài mà không chán ".


Và bonus thêm bản này nữa. Thu thích bản này hơn nhưng rất tiếc không biết cách bẻ khóa để bê về GAN, nên đành để đường link vậy.